Nghiên cứu lại kỹ thuật để nuôi hiệu quả cá bống kèo

Những năm qua, mô hình luân canh nuôi cá bống kèo với tôm nước lợ thâm canh hay bán thâm canh để cắt mầm bệnh trong nuôi tôm là không mới. Tuy nhiên, bên cạnh một số hộ nuôi cá kèo mang lại hiệu quả cao thì còn nhiều hộ nuôi thất bại do không am tường kỹ thuật nuôi đối tượng này. Do đó, việc nắm lại quy trình ương, nuôi cá kèo là vô cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả kinh tế cho bà con nông dân.

Ương cá kèo trong ao đất

Ao ương cá kèo giống có diện tích từ 1.000m2 trở lên, bờ cao, không bị lỗ mọi, độ mặn nước có thể dao động trong khoảng từ 5-25‰.

Đầu tiên cần tát ao, dọn cây cỏ thủy sinh, diệt cá dữ và địch hại. Nếu ao đã nuôi tôm cần đảo bùn để đáy ao thoáng. Sau đó phơi đáy ao cho khô và cày xới với một lớp đất mỏng, rải vôi bột xuống đáy ao và mái bờ ao với lượng dùng 7-10 kg/100m2, phơi đáy ao 1-2 ngày.

Đối với ao chưa nuôi tôm nên bón phân đã ủ mục với lượng dùng 10-15kg/100m2 hoặc phân vô cơ như N-P-K, phân DAP liều lượng 200-250 gam/100m2. Sau đó, cấp nước vào ao từ 10-20 cm trong tuần đầu tiên. Từ tuần thứ 2-3 mức nước tăng lên đạt 30-40 cm, tuần thứ 4 mức nước lên cao tới đạt 70-90 cm.

Nguồn cá kèo giống hiện nay chủ yếu bắt ở các vùng bãi triều và rừng phòng hộ trải dài từ Sóc Trăng đến giáp tỉnh Cà Mau và tập trung nhất ở ven biển Bạc Liêu. Do sử dụng nguồn giống tự nhiên nên sản lượng cá kèo giống phụ thuộc rất lớn vào người đánh bắt cá giống và mùa vụ, chất lượng giống không ổn định, kích cỡ cá không đều và lẫn nhiều loài cá tạp khác.

Cá bống kèo giống khi mua về có thể được vận chuyển trong thùng xốp hoặc bao nilong có bơm oxy. Nếu vận chuyển bằng thùng xốp thì mật độ đóng cá là 1.000-2.000 con/lít, còn nếu vận chuyển cá giống bằng bao nilong thì đóng bao với mật độ 5.000-6.000 con/lít nước cho cá cỡ 2-3cm, 800-1.000 con/lít nước đối với cá cỡ 4-5 cm.

Việc vận chuyển cá và thả cá nên thực hiện vào lúc trởi mát. Phải kiểm tra nhiệt độ và độ mặn, điều chỉnh cân bằng rồi mới thả cá xuống ao. Mật độ thả ương nuôi trong ao từ 250-300 con/m2, không nên ương quá dày trên 400 con/m2 hoặc quá thưa dưới 100 con/m2.

Trong tuần đầu tiên khi mới thả ương, cá ăn thức ăn tự nhiên trong ao, lúc này cần bổ sung thêm 50 gam bột đầu nành (hoặc cám mịn) cho 10.000 con cá. Từ tuần thứ 2 trở đi dùng thức ăn chế biến hay thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm 30-32% trộn với premix khoáng hoặc các vitamin A, C, D.

Nếu cho cá kèo ăn bằng thức ăn chế biến thì lượng thức ăn bằng 10-15% trọng lượng thân/ngày, còn cho cá ăn thức ăn công nghiệp thì lượng thức ăn bằng 2-3% trọng lượng thân/ngày, mỗi ngày cho cá ăn 3-4 lần. Có thể sử dụng thêm phân hữu cơ ủ mục, NPK, DAP để bón cho ao.

Cần chú ý theo dõi mức nước trong ao và các yếu tố thủy lý hóa như oxy hoàn tan, nhiệt độ, pH, độ mặn. Khi pH của nước vượt quá 9 phải kịp thời thay nước. Ngoài ra cần định kỳ thay nước ao mỗi tuần/lần, mỗi lần 50% lượng nước ao.

Sau khi ương cá kèo giống từ từ 35-40 ngày, cá giống có thể đạt kích cỡ chiều dài 3-5 cm, trọng lượng 0,6-1gam/con (1.000-1.500 con/kg). Có thể dùng lưới để kéo, phải kéo lưới từ từ làm nhiều lần để thu cá triệt để. Tỷ lệ sống cá ương nuôi có thể đạt từ 50-80%.

Nuôi cá kèo thương phẩm

Nuôi cá kèo thương phẩm có thể sử dụng ao nuôi tôm sú để nuôi luân canh cá bống kèo, ao nuôi có diện tích từ 1.000-2.000m2 là thích hợp.

Đầu tiên cũng cần tát cạn ao, dùng rễ cây thuốc cá để diệt tạp với liều lượng 1kg rễ tươi/100m3 nước ao. Cày hoặc xới đáy ao một lớp đất mỏng (5-7cm) để đáy ao thoáng khí. Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ (ủ mục, hoai) liều lượng 20-30kg/m2 ao. Rải vôi bột xuống đáy ao 8-12 kg/m2, xới đảo bùn đáy và phơi đát ao 2-3 ngày. Sau đó lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc, khi mức nước dạt khoảng 0,3-0,4m thì có thể thả cá giống sau đó nâng dần mực nước ao.

Cá kèo giống có nuôi có thể đạt cỡ 3-5 cm hoặc 4-6cm. Cá giống ương nuôi trong ao thì kích cỡ đồng đều hơn, khỏe hơn. Mật độ 30-60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Một số hộ thả với mật độ ban đầu rất cao (hơn 100 con/m2), sau hai tháng nuôi thì san thưa với mật độ 50 con/m2. Nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt cao 60-70%.

Cá bống kèo có tính ăn tạp, thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ và thức ăn do con người cung cấp. Do đó, định kỳ mỗi tuần bón thêm phân hữu cơ 10-15kg/100m2 hoặc 100-150 gam phân vô cơ (DAP,NPK)/100m2.

Có thể cho cá ăn thức ăn chế biến gồm cám gạo (60-70%) và bột cá (30-40%) được trộn đều và nấu chín, trộn với premix khoáng và vitamin A,D,E,C. Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3-4 và 18% cho hai tháng cuối. Khẩu phần thức ăn 4-6% trọng lượng đàn cá/ngày, cho cá ăn 2 lần/ngày vào buổi sáng sớm và chiều mát.

Nếu sử dụng thức ăn công nghiệp, kích cỡ viên thức ăn phải có kích cỡ phù hợp với độ lớn và kích thướt miệng của cá để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 18-25%, giảm dần theo tháng tuổi của cá. Khẩu phần thức ăn công nghiệp 1-1,5% trọng lượng thân/ngày.

Chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mức nước ao cần đạt 0,4-0,5m, sau đó tiếp tục dâng từ từ mỗi tuần cao hơn 0,2m cho đến khi mức nước đạt tối đa. Hàng ngày kiểm tra các yếu tố thủy, lý, hóa của ao như nhiệt độ, pH, độ trong, pH, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao, tránh bờ bị rò rỉ, lưới chắn bị thủng.

Vào mùa mưa chú ý độ mặn của nước cấp cho ao không để quá thấp dưới 3‰. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Màu nước ao xanh quá đậm hoặc chuyển qua mầu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay nước mới. Trong nuôi cá bống kèo có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn hại cá bống kèo như chim cồng cọc, rắn biển, cá nâu, cá rô phi, cá bống mọi,… Để phòng trừ địch hại phải tìm diệt hết cá tạp hoặc đặt các bù nhìn hoặc treo dâu ngang dọc gắn các lon sửa để xua đuổi chim.

Cá kèo thường gặp một số bệnh như bệnh lở loét trên thân do ký sinh trùng, đốm trắng trên thân và đầu kèm theo xuất huyết các gốc vây do vi khuẩn gây ra. Ngoài ra, cá có thể bị nhiễm bệnh do môi trường nước ô nhiễm hoặc nhiệt độ biến động quá lớn.

Để phòng bệnh phải chọn cá giống khỏe mạnh, không thả nuôi mật độ quá dày, giữ môi trường ao nuôi sạch, không để nước ao bị ô nhiễm. Đảm bảo môi trường nước sạch và chất lượng, bổ sung thêm các vitamin quan trọng nhất là Vitamin C (50-60 mg/kg thức ăn). Khi phát hiện cá bị bệnh phải xác định đúng loài ký sinh hay vi khuẩn gây bệnh để sử dụng đúng thuốc để chửa trị. Tuyệt đối không sử dụng các loại hóa chất và kháng sinh đã bị cấm.

Sau 5-6 tháng nuôi cá bống kèo có thể đạt trọng lượng trung bình 20-30gam/con (30-50 con/kg). Khi đó có thể dùng lưới kéo hoặc lợi dụng tính bơi ngược nước của cá bống kèo và dùng một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược dòng nước. Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng giống tự nhiên dao động trung bình từ 15-50%, tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác tới 30%. Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt khoảng 1-3 tấn/ha, lợi nhuận đạt từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng/ha.

Theo SỞ NN&PTNN TIỀN GIANG

Ý kiến của bạn